Phương pháp chế biến món ăn bằng đun trong nước
Nguyên liệu được bỏ vào nước, được đun nóng cho tới khi nguyên liệu chín đạt yêu cầu chế biến. Quá trình truyền nhiệt diễn ra như sau: lửa truyền nhiệt cho dụng cụ, dụng cu truyền nhiệt cho nước. Nước hấp thu nhiệt và truyền nhiệt làm chín nguyên liệu. Môi trường truyền nhiệt để làm chín nguyên liệu là nước sôi và một phần hơi nước sôi.
Nhiệt độ môi trường luôn chủ yếu là 100oC ở
điều kiện áp suất bình thường và cao hơn 100oC nếu nấu trong nồi áp
suất. Thời gian làm chín bằng đun trong nước phụ thuộc vào kích thước
nguyên liệu, đặc điểm, tính chất của mỗi loại nguyên liệu.
Sản phẩm của phương pháp này có các đặc điểm sau:
- Gia vị ngấm đều và có thủy phần cao do hút nước trong quá trình chế biến.
- Màu sắc nguyên liệu biến đổi ít, do nhiệt trong quá trình đun nấu không cao (hạn chế bởi 100oC).
- Cho phép chế biến những món ăn đòi hỏi độ mềm, nhừ.
1. Luộc
Luộc là phương pháp làm chín nguyên liệu bằng
nhiệt, trong quá trình đun nấu nguyên liệu tiếp xúc một phần hay hoàn
toàn trong nước. Các món luộc có thể sử dụng gia vị cho thêm trong khi
luộc để tăng thêm hương vị cho sản phẩm. Nguyên liệu đã được sơ chế được
cho vào nước lạnh, nước nóng hay nước sôi, tùy từng loại nguyên liệu,
đun tới khi nguyên liệu chín đạt yêu cầu chế biến.
- Nguyên liệu dùng để luộc tương đối
phong phú, nguyên liệu non thời gian luộc nhanh, nguyên liệu già thời
gian lâu hơn, thực tế thường chọn nguyên liệu có độ già vừa phải. Sơ chế
nguyên liệu thịt gia súc pha miếng to, gia cầm thường để nguyên, thủy
sản như cá để nguyên, nếu to quá thì cắt khúc. Các loại rau để nguyên
hay cắt khúc, củ giàu tinh bột như (khoai lang, khoai tây, khoai sọ,
sắn...) để nguyên. Các loại quả như bí, bầu, su hào, củ cải... thái
miếng đều nhau.
- Lượng nước dùng để luộc phải luôn
ngập nước. Nước luộc rau có tỷ lệ 2,5-4 lít / 1kg tùy theo nhu cầu sử
dụng nước nhưng nói chung nước phải ngập nguyên liệu. Nước luộc thịt gia
súc, gia cầm, cá vừa đủ ngập nguyên liệu. Để luộc các loại củ giàu tinh
bột như khoai, sắn chỉ cần 0,6-0,7 lít / 1kg, nguyên liệu dễ dàng chín
do tính hồ hoá của tinh bột cao.
- Nhiệt độ chế biến thường cao, nước
được đun sôi đều, liên tục. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào đặc điểm nguyên liệu
nhiệt độ chế biến có khác nhau. Đối với nguyên liệu lâu chín sau khi
sôi thường phải hạ nhiệt để nguyên liệu chín dần vào trong, đảm bảo bên
trong chín mà bên ngoài không bị nát. Nguyên liệu thực vật nhanh chín
nên duy trì đun sôi đều liên tục trong suốt thời gian chế biến.
- Thời gian chế biến tương đối nhanh, phụ thuộc vào tính chất, kích thước và trạng thái của nguyên liệu khi đem vào chế biến.
- Sản phẩm chín mềm hoặc chín tới,
không nhũn, màu sắc biến đổi ít. Sản phẩm thường có thủy phần cao.
Nguyên liệu sau khi luộc có thể sử dụng trực tiếp hoặc chế biến các món
ăn khác. Trong ăn Á các nguyên liệu luộc ăn kèm cùng nước chấm phù hợp
với từng loại nguyên liệu. Trong ăn Âu nguyên liệu luộc ăn kèm với thức
đệm hoặc xốt.
2. Nấu canh
Nấu canh là phương pháp làm chín nguyên liệu
bằng nhiệt nhận từ nước sôi, nguyên liệu ngập hoàn toàn trong nước khi
nấu. Canh là món ăn lấy cả cái và nước. Có thể cho thêm gia vị, nguyên
liệu phụ tùy thuộc vào từng loại canh. Nguyên liệu động vật bỏ vào từ
lúc nước lạnh, thủy sản từ lúc nước sôi, thực vật vào nước sôi đã có gia
vị cấp nhiệt đều đến khi nguyên liệu chín đạt yêu cầu.
- Nguyên liệu như gia súc, gia cầm
thường sử dụng phần thịt nạc, thái mỏng, thái sợi hoặc băm nhỏ để chất
ngọt tiết nhiều vào trong nước. Thủy sản thường là cua, hến, trai... và
các loại cá nên chọn loại nhiều nạc, ít tanh. Tùy từng loại cụ thể mà có
cách xử lý khác nhau. Các loại rau ăn lá thường thái khúc hoặc thái
nhỏ, các loại củ thường thái chỉ, thái lát mỏng.
- Lượng nước để nấu canh thường nhiều hơn cái, có thể dùng nước lạnh hoặc nước dùng để nấu canh.
- Nhiệt độ nấu canh thường duy trì sôi mạnh hay sôi vừa.
- Thời gian chế biến tương đối nhanh.
- Sản phẩm nấu canh thường có màu sắc, mùi vị đặc trưng của mỗi loại canh, vị ngon, ngọt của các loại nguyên liệu đem nấu.
3. Chần, nhúng, dội
Chần, nhúng, dội là phương pháp làm chín
nguyên liệu bằng nhiệt nhận từ nước sôi trong thời gian ngắn. Nguyên
liệu sau khi đã sơ chế bỏ vào nước sôi, đảo đều cho nguyên liệu tiếp xúc
đều với nước hoặc dội nước sôi vào nguyên liệu đến khi nguyên liệu chín
đạt yêu cầu chế biến.
- Nguyên liệu dễ chín hoặc nhanh
chín. Nguyên liệu động vật chọn loại non, mềm, nạc như (tim, gan, bầu
dục). Nguyên liệu thực vật chọn loại bánh tẻ, ít xơ, nhanh chín. Nguyên
liệu được cắt thái nhỏ, mỏng để dễ chín và chín đều.
- Lượng nước sử dụng phải nhiều để
khi bỏ nguyên liệu vào nhiệt lượng của nước giảm đi không đáng kể, không
ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sản phẩm (Giảm dinh dưỡng, hay bị dai do
chế biến lâu).
- Nhiệt độ khi chần, nhúng, dội luôn luôn sôi mạnh, đều liên tục.
- Thời gian sản phẩm tiếp xúc với nước sôi rất nhanh khoảng một vài phút hay chỉ vài chục giây.
- Sản phẩm chần, nhúng, dội chín tới,
hoặc chín tái, ăn giòn. Màu và mùi vị của nguyên liệu biến đổi ít. Sản
phẩm có thể sử dụng ngay hay chế biến tiếp.
4. Ninh, hầm
Ninh, hầm là phương pháp chế biến làm chín
nguyên liệu bằng nước trong thời gian dài, nguyên liệu chín mềm, nhừ.
Món ninh chủ yếu là lấy nước thường được sử dụng làm nước dùng cho các
món Á, Âu. Hầm được dùng chủ yếu để lấy nước dư cho chế biến xốt Âu.
Nguyên liệu được sơ chế cụ thể tùy theo mỗi loại, được bỏ vào nước lạnh
(xương thịt gia súc, gia cầm), nước sôi (thủy sản), đun sôi, hớt bọt rồi
giảm nhiệt, đun sôi nhẹ tới khi các nguyên liệu chín đạt yêu cầu thì
lọc lấy nước trong, đun sôi lại, nêm gia vị chờ chế biến tiếp. Gia vị
thơm được xử lý, cho vào trong quá trình nấu.
- Nguyên liệu để ninh, hầm khá phong
phú. Nguyên liệu động vật bao gồm: gia súc, gia cầm, cá... Nguyên liệu
thực vật bao gồm các loại củ giàu tinh bột, các loại rau, một số nguyên
liệu khô và gia vị. Món ninh, hầm có thể nấu từ một loại hay nhiều loại
nguyên liệu. Các gia vị thơm được sử dụng làm tăng thêm chất lượng cảm
quan của món ăn như hành củ khô, gừng, hoa hồi, thảo quả, quế chi, nụ
đinh, lá nguyệt quế... Thịt pha miếng to, xương chặt miếng, xương ống
thì đập dập. Củ thái khối hay vát móng lợn. Món ninh cắt thái to hơn món
hầm. Món ninh nguyên liệu thường được rửa sạch trước khi nấu để tránh
làm nước dùng bị vẩn đục, món hầm nguyên liệu có thể được xào qua.
- Lượng nước nhiều hơn cái do nhu cầu
lấy nước của món ninh là chủ yếu. Tỷ lệ cái và nước món ninh là 1/8 hay
1/10, món hầm tỷ lệ 1/2 hay 1/3.
- Nhiệt độ chế biến thường chia 2
giai đoạn. Giai đoạn đầu đun sôi, hớt bọt rồi đun nhỏ lửa, đối với món
ninh việc hớt bọt đảm bảo cho nước dùng trong, không bị đục. Giai đoạn
sau đun nhỏ lửa để nguyên liệu chín dần vào trong đạt đến độ cần thiêt.
- Thời gian ninh, hầm thời gian kéo
dài tùy theo từng loại nguyên liệu. Ví dụ: Ninh xương trâu, bò thời gian
từ 8-10h; xương lợn, gia cầm từ 3-4h; cá từ 1,5-2h; rau củ 1-1,5h. Thời
gian ninh lâu hơn hầm.
- Sản phẩm đối với món ninh yêu cầu
nước phải ngọt, trong, không đục, xương phải dóc thịt, nước dùng thơm
mùi của các gia vị cho vào khi đun nấu. Đối với món hầm nhu cầu lấy cái
là chủ yếu nước ít, hơi sánh; nguyên liệu chín mềm, nhừ, không nát,
không bã (do các chất dinh dưỡng chuyển vào nước). Các món hầm nguyên
liệu thường được tẩm ướp qua nên sản phẩm có màu, hương vị hấp dẫn. Sản
phẩm món hầm sử dụng ngay, món ninh thường sử dụng chế biến tiếp.
5. Kho, rim
Kho và rim là phương pháp làm chín nguyên liệu
bằng nước có gia vị tạo màu, có mùi, vị đặc trưng, sản phẩm chín mềm
nhừ, có độ mặn cao. Nguyên liệu được xếp vào dụng cụ, (nguyên liệu động
vật có thể được xào, rán qua). Gia vị cần thiết kết hơp với nước, gia vị
tạo màu rồi cho vào nguyên liệu đun sôi kỹ giảm nhiệt độ để nguyên liệu
chín mềm cạn hoặc còn nước sánh.
- Nguyên liệu để kho, rim là động vật
như: cá, tôm, thịt; nguyên liệu thực vật như củ cải, su hào, dưa cải;
gia vị như: riềng, mẻ, mắm tôm, nghệ, gừng, ớt nước dừa, sả... Nguyên
liệu động vật thái to (thịt) hay cắt khúc (cá), nguyên liệu thực vật
thái khối to. Nguyên liệu đông vật có thể ướp gia vị, cá có thể rán
trước. Các món kho có thể sử dụng nhiều nguyên liệu động vật hoặc kho
lẫn nguyên liệu thực vật, các món rim chỉ dùng một loại nguyên liệu.
- Lượng nước trong các món kho xăm xắp; rim ít hơn.
- Nhiệt độ chỉ cần sôi nhẹ tới khi nguyên liệu chín mềm.
- Thời gian chế biến các món kho thường lâu khoảng 1-2 h, rim từ 10-25 phút.
- Sản phẩm kho và rim thường có màu
vàng cánh gián, tới màu nâu thẫm, vị hơi mặn, nguyên liệu chín mềm,
nguyên miếng. Món kho độ mặn cao hơn rim, nước kho thường ít hơn rim.
Kho khô thường áp dụng với nguyên liệu có mùi tanh như cá. Kho còn nước
sánh như thịt lợn kho tầu, thịt bò kho gừng...
6. Om
Om là phương pháp làm chín bằng nước có sự
tham gia của gia vị chua, có mùi thơm của gia vị đặc trưng, nguyên liệu
chín mềm. Nguyên liệu sơ chế cụ thể tùy theo từng loại, ướp gia vị, xào
hoặc rán qua rồi xếp vào dụng cụ, thêm nước dùng hoặc đun sôi nước pha
các loại gia vị vào, đun nhỏ lửa tới khi nguyên liệu chín mềm, nước xốt
sánh.
- Nguyên liệu om thường là nguyên
liệu động vật như: thịt, cá, lươn... Nguyên liệu chọn những phần thịt
mềm, để nguyên hoặc pha miếng đều nhau.
- Lượng nước dùng để om tương đối ít thường lấy nước ướp nguyên liệu ban đầu.
- Nhiệt độ đun nấu chỉ cần sôi nhẹ để nguyên liệu chín tới và ngấm gia vị.
- Thời gian đun nấu nhanh vì nguyên liệu đã được xào, rán qua, chất lượng nguyên liệu loại non mềm, dễ chín.
- Sản phẩm om chín mềm, không nát, có ít nước sánh. Vị hơi chua dịu, nổi màu và mùi thơm của gia vị đặc trưngNguồn " Sưu Tầm"